Trách nhiệm pháp lý của hành vi Tố cáo sai sự thật
Tố cáo là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, nhằm phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Việc Tố cáo hiện nay được điều chỉnh bởi Luật Tố cáo 2018 hướng đến hành vi vi phạm pháp luật nói chung. Tuy nhiên, việc lợi dụng quyền Tố cáo để cung cấp thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm danh dự người khác là hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý theo nhiều hình thức, từ hành chính đến hình sự. Bài viết sau của Luật Bắc Dương sẽ phân tích trách nhiệm pháp lý đối với hành vi Tố cáo sai sự thật theo quy định pháp luật hiện hành.
1. Hành vi Tố cáo sai sự thật là gì?
Tố cáo sai sự thật là hành vi cung cấp thông tin không đúng với thực tế khách quan, làm phát sinh trách nhiệm pháp lý cho người bị tố cáo hoặc gây ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức. Hành vi này có thể thể hiện dưới nhiều dạng như:
– Bịa đặt, vu khống cá nhân, tổ chức.
– Cố tình Tố cáo sai sự thật để gây sức ép, trả thù.
– Cung cấp tài liệu, chứng cứ giả mạo khi Tố cáo.
Theo khoản 10 Điều 8 Luật Tố cáo 2018, một trong các hành vi bị nghiêm cấm là:
“Cố ý tố cáo sai sự thật; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để tố cáo.
Như vậy việc Tố cáo phải khách quan trung thực để đảm bảo quyền lợi hợp pháp giữa các bên khi có phát sinh Tố cáo.
2. Trách nhiệm pháp lý
Theo hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không ai có quyền xâm phạm đến nhân phẩm và danh dự của người khác dưới bất kì hình thức nào. Việc cố tình tố cáo sai sự thật là hành vi xâm phạm trực tiếp đến danh dự và nhân phẩm của cười khác được pháp luật bảo hộ. Hành vi này gây ra hậu quả nghiêm trọng cho người khác, bởi vậy người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm thích đáng với hành vi do mình gây ra.
2.1. Trách nhiệm dân sự
Đối với hành vi tố cáo sai sự thật nhưng chưa đến mức truy cứu pháp luật hình sự thì người thực hiện hành vi sẽ phai chịu trách nhiệm pháp luật dân sự như:
Theo Điều 9 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH quy định xử phạt đối với hành vi tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật từ 1.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và có thể bị phạt bổ sung bằng hình thức: “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”.
Ngoài ra, người vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như buộc cải chính công khai, xin lỗi, hoặc buộc bồi thường thiệt hại nếu có.
Theo Điều 592 và Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, nếu hành vi Tố cáo sai sự thật gây thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc tài sản của người khác thì người thực hiện hành vi phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị thiệt hại.

2.3. Trách nhiệm hình sự
Trong trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, người Tố cáo sai sự thật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
Theo Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015, đối với người có hành vi lợi dụng quyền tố cáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì có thể bị xử lý về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
“1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
Qua đó, người phạm tội bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trong trường hợp hành vi phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hình phạt có thể lên đến 7 năm tù.
Theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội vu khống
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.”
Ngoài ra nếu có tình tiết tăng nặng thì người thực hiện hành vi có thể phải đối mặt với mức án tù lên đến 7 năm theo các quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều này.
3. Kết luận
Tố cáo là quyền quan trọng của công dân, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, việc lạm dụng quyền này để đưa thông tin sai sự thật, vu khống hoặc xúc phạm cá nhân, tổ chức không chỉ vi phạm đạo đức xã hội mà còn là hành vi trái pháp luật, có thể dẫn đến việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người dân khi thực hiện quyền Tố cáo cần hiểu rõ hậu quả pháp lý nếu cố tình cung cấp thông tin sai sự thật. Khi thực hiện quyền Tố cáo cần đảm bảo thông tin cung cấp là trung thực, có căn cứ, không được sử dụng quyền này như một công cụ để trả thù cá nhân.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Bắc Dương về Trách nhiệm pháp lý của hành vi Tố cáo sai sự thật theo quy định pháp luật. Nếu có nhu cầu tư vấn, thực hiện các thủ tục pháp lý, Quý độc giả có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ.

Nguyễn Quang Vinh – 09/5/2025
Căn cứ pháp lý: Luật Tố cáo 2018, Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Hình sự 2018, Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác.
>>>>> Tham khảo thêm: https://luatbacduong.com/trach-nhiem-phap-ly-cua-hanh-vi-giet-nguoi-nham-truc-loi-tien-bao-hiem/
Tiếng Việt
English








